Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các ấn phẩm của blog, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "blog". (Ví dụ: thiệp tân linh mục blog). Tìm kiếm ngay
115 lượt xem

Sinh mổ không liên quan đến IQ trẻ nhỏ nhưng có 5 thiệt thòi bé phải gánh chịu

Trẻ sinh mổ và sinh tự nhiên có khác nhau về khả năng thích ứng hành vi

Chưa có công trình nghiên cứu nào khẳng định trẻ sinh mổ có chỉ số IQ kém hơn trẻ sinh thường. Tuy nhiên có những thiệt thòi trẻ sinh mổ phải đối mặt không thể chối cãi:

1. Bé trai sinh mổ có khả năng miễn dịch thấp hơn

Cũng là sinh mổ nên khả năng miễn dịch của các bé trai dễ bị suy giảm hơn so với các bé gái. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có rất ít sự khác biệt về khả năng miễn dịch giữa trẻ nam và trẻ nữ sinh tự nhiên; so với trẻ sinh tự nhiên, khả năng miễn dịch và chống nhiễm trùng của trẻ sinh mổ tương đối kém, và hiện tượng này nổi bật hơn ở trẻ nam.

Các chuyên gia giải thích rằng gen kiểm soát sự tổng hợp immunoglobulin (chủ yếu được sử dụng để tăng khả năng miễn dịch của con người) nằm trong nhiễm sắc thể X của con người, và phụ nữ có nhiều hơn nam giới một nhiễm sắc thể nên bé gái có khả năng miễn dịch mạnh hơn bé trai. Trong nghiên cứu, các chuyên gia đã so sánh hàm lượng bổ sung trong máu tĩnh mạch rốn của trẻ sinh thường và sinh mổ, trong đó, hàm lượng immunoglobulin trong dây rốn ở trẻ sinh thường cao hơn đáng kể so với nhóm sinh mổ. Globulin miễn dịch nhận được từ người mẹ trong quá trình chuyển dạ, đặc biệt là khi đi qua ống sinh, do nó bị ép bởi các cơn co thắt tử cung. Theo quan điểm này, sinh mổ có thể làm giảm khả năng miễn dịch và chống nhiễm trùng của trẻ sơ sinh, đồng thời làm tăng khả năng nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh. Vì vậy, các chuyên gia khuyên rằng khi có điều kiện, tốt nhất mẹ nên sinh thường tự nhiên sẽ có lợi hơn cho sức khỏe của trẻ sơ sinh.

2. Sinh mổ làm tăng số lượng trẻ sơ sinh mắc “bệnh phổi ướt”

Khi sinh mổ, do thai nhi không được ép qua ống sinh, dịch nhầy trong đường thở không được tống ra ngoài, phổi không được vận động nên chức năng phổi không hoạt động được. Vì vậy trẻ không dễ thích nghi với những thay đổi đột ngộtở môi trường bên ngoài. Trẻ sơ sinh dễ bị ngạt và suy hô hấp, thậm chí dẫn đến các bệnh như phổi ướt sau sinh và viêm phổi ở trẻ sơ sinh.

3. Trẻ sinh mổ dễ bị ảnh hưởng bởi thuốc tê

Khi sinh mổ, các bác sĩ sẽ sử dụng các loại thuốc ức chế trung khu như thuốc tê, thuốc giảm đau… Những loại thuốc này có thể xâm nhập qua nhau thai, không tốt cho thai nhi. Các loại thuốc như thuốc mê có thể gây hại cho đứa trẻ. Nó tác động vào hệ tuần hoàn của mẹ làm rối loạn quá trình trao đổi khí giữa mẹ và thai nhi, tệ hơn nữa là ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cung cấp oxy của thai nhi.

4. Trẻ sinh mổ dễ bị ADHD

Theo phân tích của chuyên gia , sinh mổ khác biệt với sinh tự nhiên. Những thay đổi về “môi trường” khi đứa trẻ được sinh ra, và những tổn thương về giác quan khiến đứa trẻ dễ mắc các bệnh tâm thần kinh như tăng động trong quá trình tăng trưởng. Đó là thiệt thòi trẻ sinh mổ phải đối mặt trong quá trình phát triển của mình.

5. Trẻ sinh mổ dễ bị rối loạn hòa nhập.

Rối loạn chức năng tích hợp cảm giác có thực sự liên quan đến sinh mổ? Cái gọi là rối loạn hòa nhập là những gì trẻ nghĩ và những gì trẻ làm không giống nhau, trẻ thường không thể kiềm chế hành vi của mình. Các bác sĩ nhận định rằng mổ lấy thai thực sự là nguyên nhân gây ra chứng rối loạn hòa nhập của trẻ.

Mọi chuyển động của thai nhi trong cơ thể mẹ đều liên quan mật thiết đến vận mệnh tương lai của nó. Quá trình sản sinh bình thường của thai nhi trong ống sinh của mẹ là cơ hội đầu tiên để não bộ và cơ thể phối hợp tiếp xúc. Và sinh mổ tước đoạt cơ hội của trẻ, quyền đầu tiên cảm nhận bài tập tích hợp..

Là một hiện tượng phổ biến hiện nay, rối loạn hòa nhập thực sự nên thu hút sự quan tâm của các bậc cha mẹ, nhưng nó không cần quá đáng sợ đối với những sản phụ phải sinh mổ. Theo báo cáo, sau khi trẻ rối loạn hòa nhập đi học, hầu hết các em có thể trở lại bình thường thông qua sự huấn luyện của nhà trường và gia đình. Chẳng hãn như nên để trẻ cảm nhận được sự kích thích nào đó từ bên ngoài càng nhiều càng tốt, hoạt động ngoài trời nhiều hơn và khuyến khích trẻ tự làm mọi việc, bao gồm cả sinh hoạt, ăn uống.

 

Bài viết cùng chủ đề: